Theo nghiên cứu của các chuyên gia thì có nhiều nguyên nhân khiến cho một đứa trẻ có thể bị điếc bẩm sinh hoặc bị điếc trong thời thơ ấu. Nhưng không phải lúc nào bạn cũng có thể xác định được chính xác lý do gây ra tình trạng này. Đôi khi cần phải làm một số xét nghiệm để cố gắng tìm ra nguyên nhân gây điếc bẩm sinh ở trẻ, tuy nhiên sẽ chỉ có thể xác định được nguyên nhân ở 40–50% trẻ em bị điếc bẩm sinh.
1. Điếc bẩm sinh là gì?
Điếc bẩm sinh - mất
thính lực ngay từ khi mới sinh xảy ra khi khả năng của tai chuyển đổi năng lượng
cơ học rung động của âm thanh thành năng lượng điện của các xung thần kinh bị
suy giảm.
Mất
thính lực được phân loại theo vị trí tổn thương, cụ thể:
- Mất thính giác dẫn
truyền: tai ngoài hoặc tai giữa bị ảnh hưởng. Khi mất thính lực dẫn truyền,
sóng âm thanh không thể truyền qua tai, có thể là thứ phát do kém phát triển của
tai giữa, tai ngoài hoặc cả hai, hoặc sau tắc nghẽn thoáng qua của tai giữa do
tràn dịch (như trong trường hợp viêm tai giữa).
- Mất thính giác thần
kinh cảm giác: tai trong, dây thần kinh thính giác hoặc đường dẫn truyền thính
giác trung ương bị ảnh hưởng. Mất thính giác thần kinh giác quan có thể được
chia nhỏ thành mất thính giác cảm giác (khi các tế bào lông bị ảnh hưởng), mất
thính lực trung tâm khi nguyên nhân nằm dọc theo đường thính giác trung tâm hoặc
rối loạn phổ bệnh thần kinh thính giác.
- Khiếm thính hỗn hợp
được định nghĩa là mất thính lực dẫn truyền và thần kinh giác quan
2. Tại sao trẻ bị điếc bẩm sinh?
2.1. Nguyên nhân gây điếc trước khi sinh
Đa số trẻ khiếm thính,
nghe kém là do yếu tố di truyền, thường gặp nhất là khiếm khuyết một gen. Những
khuyết tật này có thể có các phương thức di truyền khác nhau và tỷ lệ mắc bệnh
khác nhau.
Mất thính lực do di
truyền lặn không hội chứng chiếm 80% các trường hợp di truyền, thường là bẩm
sinh, trong khi mất thính lực không hội chứng trội trên NST thường, chiếm 20%
các trường hợp còn lại.
Mặc dù tần số của các
gen gây bệnh khác nhau giữa các quần thể và dân tộc khác nhau nhưng nguyên nhân
di truyền thường gặp nhất của mất thính giác không hội chứng từ gen di truyền lặn
ở mức độ nghiêm trọng đến sâu sắc là đột biến gen beta 2 của protein tiếp giáp
khoảng trống (GJB2). Các đột biến ở gen này chiếm ≤50% các trường hợp mất thính
lực do gen lặn không hội chứng ở người da trắng ở Châu Âu và Hoa Kỳ.
Điếc vĩnh viễn ở trẻ em
thường gặp nhất là do di truyền, được truyền lại trong gia đình, mặc dù dường
như trong gia đình đó không có tiền sử bị điếc bẩm sinh.
Một số hội chứng phổ biến
nhất liên quan đến điếc bẩm sinh bao gồm:
- Hội chứng Alport
- Hội chứng
Branchio-Oto-Renal ( Hội chứng Khe mang- Tai- Thận)
- Hội chứng CHARGE
- Hội chứng Crouzon
- Hội chứng Down
- Hội chứng Goldenhar
- Hội chứng Jervell and
Lange Nielsen
- Hội chứng Pendred
- Hội chứng Stickler
- Hội chứng Treacher
Collins
- Hội chứng Usher Loại
1 và Loại 2
- Hội chứng Waardenburg
Nguyên nhân gây điếc bẩm
sinh cũng có thể do các biến chứng khi mang thai. Các bệnh nhiễm trùng như bệnh
rubella, cytomegalovirus (CMV) , toxoplasmosis và herpes có thể khiến trẻ bị điếc
bẩm sinh.
Bên cạnh đó, nhiễm
trùng bẩm sinh cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng, thực tế nhiễm trùng
cytomegalovirus (CMV) bẩm sinh được coi là nguyên nhân phổ biến nhất không di
truyền gây mất thính giác thần kinh giác quan. Vi rút này được phát tán trong
các chất dịch cơ thể, chẳng hạn như nước tiểu, nước bọt, máu và việc tiếp xúc với
CMV thường gặp nhất qua quan hệ tình dục hoặc tiếp xúc với chất dịch cơ thể của
trẻ nhỏ bị nhiễm CMV.
Nguy cơ mất thính lực bẩm
sinh do nhiễm trùng có thể phụ thuộc phần lớn vào tình trạng kinh tế xã hội. Tại
các nước có của các chiến lược phòng ngừa như tiêm chủng hoặc các biện pháp vệ
sinh tốt thì nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sẽ thấp hơn. Ở các quốc gia không có
chương trình tiêm chủng rubella thì nhiễm rubella bẩm sinh là nguyên nhân hàng
đầu gây mất thính lực bẩm sinh không do yếu tố di truyền. Ngoài ra còn có nhiều
loại thuốc, được gọi là thuốc gây độc cho tai, có thể làm hỏng hệ thống thính
giác của em bé trước khi sinh.
Thính giác có thể bị ảnh
hưởng bởi trẻ sứt môi, hở hàm ếch hoặc có thể tự xảy ra và có liên quan đến một
trong các hội chứng được liệt kê ở trên.
Các dạng điếc khác nhau
có thể liên quan đến chứng tai nhỏ và mất trương lực, tùy thuộc vào phần nào của
tai không được hình thành hoặc hoạt động như bình thường.
2.2. Nguyên nhân gây điếc trong thời thơ ấu
Sinh non là một trong
những nguyên nhân gây điếc ở trẻ, bởi trong các trường hợp này, một số cơ quan ở
trẻ chưa được phát triển toàn diện, từ đó khiến trẻ dễ bị nhiễm trùng hơn. Bên
cạnh đó, vàng da nghiêm trọng hoặc thiếu oxy cũng có thể gây điếc ở trẻ. Ngoài
ra, các bệnh nhiễm trùng trong thời thơ ấu, chẳng hạn như, viêm màng não sởi và
quai bị cũng có thể là nguyên nhân khiến trẻ bị điếc.
Trẻ em có thể mắc một bệnh
về tai hiếm gặp gọi là bệnh cholesteatoma và bệnh xơ cứng tai. Cả 2 căn bệnh có
thể xảy ra bất cứ lúc nào trong thời thơ ấu, tuy nhiên bệnh xơ cứng tai phổ biến
hơn ở thanh thiếu niên.
Các chuyên gia y tế
cũng cho biết, ngoài các nguyên nhân trên thì đôi khi tình trạng chấn thương đầu
hoặc tiếp xúc với tiếng ồn lớn cũng có thể làm hỏng hệ thống thính giác của trẻ.
2.3. Các yếu tố nguy cơ gây điếc bẩm sinh
Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ
đã xác định một số yếu tố nguy cơ gây mất thính lực bẩm sinh bao gồm:
- Tiền sử gia đình có
người bị mất thính lực bẩm sinh vĩnh viễn.
- Trẻ sơ sinh phải nhập
viện chăm sóc đặc biệt.
- Các can thiệp y tế
như thông khí hỗ trợ, tiếp cận tĩnh mạch và sử dụng aminoglycosid khi ở trong
phòng chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh làm tăng khả năng mất thính giác.
- Thời gian nhập viện
≥12 ngày và tiền sử điều trị bằng thở máy tần số cao cũng được xác định là các
yếu tố nguy cơ độc lập gây mất thính lực ở nhóm đối tượng này.
Điếc bẩm sinh hay tình
trạng mất thính lực ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, thể trạng và tâm sinh
lý của trẻ. Theo đó, việc phát hiện sớm thính lực ở trẻ có vấn đề sẽ đem lại cơ
hội điều trị bệnh tốt hơn và có phương pháp cải thiện sớm cho trẻ. Vì thế, khi
cha mẹ thấy con mình chậm chạp so với các bạn đồng trang lứa, đồng thời có dấu
hiệu điếc bẩm sinh thì cần sớm đưa trẻ đi kiểm tra, sàng lọc câm điếc bẩm sinh.
Về lâu dài bị điếc bẩm sinh sẽ dẫn tới câm.
3. Điều trị điếc bẩm sinh ở trẻ em
Nếu đã phát hiện trẻ bị
điếc, cần phải điều trị sớm để giảm tác hại do điếc. Tùy theo từng nguyên nhân
gây giảm thính lực mà điều trị.
- Nếu giảm thính lực do
tai ngoài: Do nước vào tai, ráy tai bị nở ra bít kín đường truyền âm thanh đến
màng nhĩ. Điều trị bằng cách lấy ráy tai ra trẻ sẽ nghe lại bình thường.
- Điếc do tai giữa: Tắc
vòi nhĩ, viêm tai giữa thanh dịch, nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời
sẽ dẫn đến viêm tai giữa thủng màng nhĩ. Điều trị bằng cách dùng thuốc và phẫu
thuật vá màng nhĩ.
- Điếc do bệnh lý ở tai
trong: Điếc đột ngột thường gặp sau một đêm ngủ dậy. Đây là một cấp cứu Tai Mũi
Họng, vì kết quả điều trị rất khác nhau tùy thuộc thời gian đến sớm hay muộn.
- Mọi trường hợp điếc từ
nhẹ, trung bình, hay điếc nặng, điếc sâu mà chưa có điều kiện để cấy điện ốc
tai, thì cần cho trẻ dùng máy nghe càng sớm càng tốt.
- Nếu trẻ điếc bẩm sinh
và điếc trước khi học nói thì thời gian bắt đầu cấy điện ốc tai rất quan trọng,
phải cấy điện ốc tai trước 5 tuổi, tốt nhất là cấy từ 2 - 3 tuổi vì đây là giai
đoạn trẻ học nói.
Trên đây là một số
thông tin cơ bản mà phụ huynh cần biết về bệnh điếc bẩm sinh ở trẻ em. Hy vọng
có thể giúp ba mẹ có những góc nhìn rõ ràng hơn, cũng như biết cách chăm sóc và
điều trị sớm cho trẻ.
Nguồn:
TaiMuiHong.net